Phong tục tập quán Gia Định – Sài Gòn
Giới thiệu những nét văn hóa truyền thống đã được bảo lưu gìn giữ và những đặc điểm riêng có tại vùng đất mới phương Nam, các hiện vật, hình ảnh, trưng bày về phong tục cưới hỏi:
Hôn nhân: Lễ cưới của người Việt và người Hoa tại Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nét tương đồng. Các sách chuyên khảo về phong tục có viết: Trước đây, đám cưới phải đủ 6 lễ: Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp tệ (lễ hỏi), thỉnh kỳ, thân nghinh. Sau này, phổ biến còn ba lễ: Chạm ngõ, hỏi, cưới.
– Sưu tập nữ trang các loại: vàng, bạc, đồng, trong đó bông tai được xem là sính lễ quan trọng mà người Nam Bộ quan niệm nhất thiết phải có cho ngày đính ước nên duyên của cô gái.
– Sưu tập các loại hôn thú xưa ( tờ khai hôn thú bằng chữ Hán Nôm năm 1879; bộ khai hôn thú đầu thế kỷ XX của địa phận Mỹ Tho dày 26 trang, tờ văn tế tơ hồng, thiếp báo ngày là những hiện vật gốc).
– Sưu tập trang phục cưới người Việt (giữa thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, giữa thế kỷ XX đến nay) do nhà may Liên Hương phục chế theo nguyên mẫu thiết kế.
– Các bản trích luật Hôn nhân thời Hồng Đức, thời Gia Long; Qui ước nghi lễ hỏi, cưới của người Việt, Hoa, Chăm, Khmer.
Người Việt ở Nam Bộ rất chú trọng lễ hỏi, đối với nhà gái đây là ngày đại tân khoa, sau lễ hỏi người con gái được coi như là dâu, con. Trong đám hỏi, tùy theo gia cảnh nhà trai còn đem tiền và nữ trang (có thể là vàng, bạc, đồng), gồm có: đôi bông tai, đôi xuyến, kiềng, dây chuyền. Từ đầu thế kỷ XX trong nghi lễ có thêm hình thức trao nhẫn cưới.
Tất cả các nghi thức đều thực hiện trước bàn thờ gia tiên, tại gian nhà chính, các lễ vật được sắp đặt với tấm lòng thành kính, con cháu kính cáo với tổ tiên, mong muốn những điều tốt đẹp, phúc lành nhất cho gia tộc.
– Phục dựng gian nhà người Việt (kiến trúc nhà rường đặc trưng Nam Bộ) với kết cấu bằng chất liệu gỗ, các cột chính, vì kèo, bao lam chạm khắc trang trí hoa văn Phúc – Lộc – Thọ, Mẫu đơn – Trĩ … thể hiện sự tài hoa khéo léo của người thợ thủ công Nam Bộ, đồng thời tại gian nhà chính bài trí nội thất truyền thống như: Hoành phi “Phúc Mãn Đường”, bức trướng “Đức hậu tải phúc”, câu đối thiếp vàng :
“Trung hiếu nối nghiệp nhà, lưỡng nhuận đối non sông đều vững
Nghĩa nhân truyền phúa ấm, tam đa cùng nhật nguyệt trường tồn”
Trung tâm là bàn thờ gia tiên với các khí tự : “Tam sự”, “bình hoa” và “mâm ngũ quả” kết long phụng, đây cũng là nơi trang trọng diễn ra các nghi thức của lễ cưới và trình các lễ vật đám hỏi, cưới : trầu, cau, trà, rượu, bánh, trái, tợ để tiền cưới và cặp đèn hoàng lạp kết bông.
* Hôn lễ của người Chăm Islam Nam Bộ được tổ chức qua 4 lễ: lễ Naokhada (dạm hỏi); lễ Clokpanôith (lễ hỏi); lễ Khal ao (lễ tặng quà) và lễ Pa khah (lễ cưới).
* Lễ cưới người Khmer Nam Bộ diễn theo lịch tháng của dân tộc. Theo phong tục cổ truyền gồm ba lễ: lễ sđây đol đông (lễ nói), lễ lơngmaha (lễ hỏi) và lễ thngay bôs coltê (lễ cưới). Nghi lễ được thực hiện theo các điệu nhạc múa cổ truyền.
Tục ăn trầu:
Bên cạnh tục cưới hỏi, ăn trầu, mời trầu cũng là một phong tục có từ lâu đời thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của Việt Nam. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, người Việt Nam vốn ưa sự kín đáo, tế nhị, thường mượn miếng trầu để bắt đầu câu chuyện, thể hiện sự gắn kết tình cảm. Đặc biệt trong hôn nhân, trầu cau biểu tượng của tình yêu thủy chung, son sắt. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành Thông chí viết về hôn nhân “Hôn lễ tuy chắc bằng ở mai mối mà định duyên, nhưng thường lấy trầu cau làm trọng…”. Miếng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính ơn nhớ tổ tiên, vì vậy trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt luôn có đĩa trầu cau.
Mặc dù ngày nay tục ăn trầu không còn phổ biến, song lá trầu quả cau vẫn hiện diện trong các dịp lễ quan trọng, bởi nó gắn liền trong tâm thức và trở thành biểu tượng văn hóa, gắn kết tình cảm.