TRƯNG BÀY “ NÉT VĂN HÓA TÂY NGUYÊN”
Trưng bày “Nét văn hóa Tây Nguyên” mở cửa từ ngày 24/4/2009 đến ngày 20/2/2010.
Phòng trưng bày gồm 346 hiện vật của nhà sưu tập tư nhân Nguyễn Văn Hải đã khái quát phần nào nét văn hóa Tây Nguyên, là vùng đất gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, thuộc địa bàn cư trú của các tộc người Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, M’Nông…
Các mảng trưng bày:
- Sinh hoạt kinh tế (Dụng cụ săn bắt – hái lượm, làm nương rẫy):
Hiện vật:
Dụng cụ bắt cá, giỏ đựng cá
Dao xà – gạc
Nạo làm cỏ
Cuốc
Rìu
Đòn xóc
Gùi
Mõ đuổi voi
Bẫy chuột
Trưng bày một góc bếp của tộc người Êđê
Các tộc người ở Tây Nguyên là cư dân nông nghiệp từ lâu đời. Trong sinh hoạt kinh tế truyền thống, phương thức phát rừng làm rẫy, chiếm vị trí trọng yếu. Ngoài cây lương thực chính là lúa tẻ; ngô, khoai, sắn cũng được trồng thêm trên rẫy để làm lương thực phụ và nhất là dùng cho chăn nuôi heo, gà…
Công cụ làm rẫy chủ yếu là: Chà gạc, rìu, gậy chọc lỗ, cuốc, dụng cụ làm cỏ và cào.. .Để đánh bắt cá họ cũng dùng các công cụ như: nơm, lọp,
Trước đây săn thú là một phương thức sinh sống của cư dân Tây Nguyên, không chỉ săn bắt các loài thú nhỏ họ còn săn bắt và thuần dưỡng voi rừng để làm vật nuôi và phương tiện vận chuyển.
Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm như: trâu, bò, dê, lợn, gà, vịt… chủ yếu là dùng vào các lễ hiến sinh mà mỗi năm thường phải tổ chức nhiều lần theo chu kỳ nông nghiệp cổ truyền và đời sống của họ.
Các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, thường nấu cơm bằng những nồi đất nung, nồi đồng,. Thức ăn thông thường là muối ớt, cá khô, thịt thú và các loại rau rừng…Rượu cần và thuốc lá cuốn là một nhu cầu phổ biến đối với đồng bào dân tộc
Nghề thủ công thông dụng là nghề dệt vải sợi bông và đan lát các dụng cụ như gùi, giỏ, nón…
Hiện vật:
Sưu tập gùi: gùi dùng để gùi hàng, gùi đựng vật dụng trong và gùi dùng đựng sính lễ cưới nhà gái mang đến nhà trai: Gùi thường được đan bằng vật liệu tre, mây; phần đế bằng gỗ đẽo (Đối với gùi của người Ê Đê) hoặc cật tre (Gùi của người M’nông). Gùi được đan theo hình khối trụ tròn, có hai quai bằng dây rừng bện chặt rất dai, một đầu được đan ghép với thân sát với miệng gùi, đầu kia được buộc với đế gùi.
Đối với các tộc người, chiếc gùi không phải chỉ là đồ đựng thuần túy mà còn là đồ trang trí thể hiện óc thẩm mỹ và bàn tay khéo léo của người đan. Do vậy, trên thân gùi thường có nhiều hoa văn cầu kỳ, thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống. Mỗi dân tộc lại có cách đan gùi, hình dáng và hoa văn thể hiện trên gùi cũng có nét riêng biệt. Hiện tại những chiếc gùi nhỏ, xinh xắn là một món quà lưu niệm rất dễ thương được du khách chú ý khi đi du lịch ở Tây nguyên.
Hiện vật “Cây nêu”: Được các tộc người ở Tây Nguyên trồng vào những dịp có điều may mắn. Trên ngọn nêu thường treo túm lá dứa, túm lông gà, cành đa, lá thiên tuế, những chiếc khánh và con cá bằng đất nung, cùng một tán tròn bằng tre lứa dán giấy đỏ. Có nơi còn treo những chiếc đèn lồng , đèn xếp hoặc vài xếp tiền vàng mã…Dù với dụng ý khác nhau, nhưng những vật treo đều tượng trưng cho nội dung hướng về sự bảo vệ con người, tạo lập hạnh phúc cho con người. Ví như lá rứa để doạ ma quỷ (vì ma quỷ sợ gai!), không cho chúng vào quấy phá nhà. Cái khánh đồng âm với khánh – có nghĩa là phúc; năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Cành đa tượng trưng cho điều lành và tuổi thọ. Tiền vàng mã để cầu tài cầu lộc. Lông gà là biểu tượng chim thần (là sức mạnh thiên nhiên giúp người)… Đặc biệt cây nêu còn được coi là cây vũ trụ – nối liền đất với trời. Tán tròn bằng giây đỏ tượng trưng cho mặt trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của mặt trời) đậu.
- Nhà ở:
Hầu hết các tộc người Tây Nguyên sống trong nhà sàn thấp.
Ảnh Nhà dài của người Ê Đê (hiện vật là cầu thang) có kết cấu kiểu nhà sàn thấp, dài thường từ 15m đến hơn 100m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nó là ngôi nhà lớn của nhiều thế hệ sống chung như một đại gia đình và là nét đặc trưng của chế độ mẫu hệ của người Ê Đê
Nhà dài Ê Đê thưòng rất dài vì là nơi ở chung có khi của cả một dòng họ và thường xuyên được nối dài thêm mỗi khi một thành viên nữ trong gia đình xây dựng gia thất. Vì vậy có những huyền thoại nhà dài như tiếng chiêng ngân bởi vì đứng ở đầu nhà đánh chiêng thì cuối nhà chỉ còn nghe rất nhỏ, ra khỏi là mất luôn, không còn nghe thấy gì nữa.
Nhà dài truyền thống thường được xây dựng bằng vật liệu gỗ, tre, nứa lợp mái tranh. Nhà có kết cấu cột kèo bằng gỗ tốt có sức chịu đựng dãi dầu cùng năm tháng. Các đà ngang, đòn dông luôn được đẽo bằng tay, từ những cây gỗ nguyên vẹn dài có thể tới trên chục mét; đếm chúng, ta có thể biết nhà đã có thêm bao nhiêu lần được nối dài. Những lần nối dài thường là khi trong nhà có một thành viên nữ xây dựng gia thất vì người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ.
Nhà được lợp bằng cỏ tranh đánh rất dày, trên 20cm rất bền. Đỉnh mái cách sàn nhà chừng 4-5 m. Gầm sàn cao khoảng hơn 1m trước đây luôn được dùng làm nơi nuôi nhốt trâu, bò, lợn, gà. Khi làm nhà mới, người Ê Đê rất kiêng không bao giờ dùng lại gỗ nhà cũ mà thường đốt bỏ, tuy nhiên ngày nay phong tục này chỉ còn tồn tại ở các vùng sâu gần rừng nơi còn dễ kiếm gỗ làm nhà.
Những đặc trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặt biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài là nơi chứa các vật dụng như bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) có thể dài tới 20m được đẽo từ những thân cây rừng nguyên vẹn kể cả chân, trên vách có treo cồng chiêng … nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là “trên” chia thành nhiều gian nhỏ. Ngăn đầu tiên là ngăn của vợ chồng chủ nhà, tiếp theo là ngăn người con gái chưa lấy chồng, sau đó đến các ngăn của vợ chồng những người con gái đã lấy chồng, cuối cùng là ngăn dành cho khách.
Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp lửa… Nguyên bản trước đây bếp lửa của người Ê Đê thường được đặt trực tiếp trên sàn, họ đóng một khung vuông bằng gỗ cao khoảng 10 cm, đổ đất nện, sau đó đốt lửa trên đó cả ngày với mục đích giữ lửa và để chống muỗi và các loại côn trùng khác.
Người Ê Đê có tập quán là khi đi ngủ thì đầu quay về hướng Đông và chân quay về hướng Tây. Do đó nhà dài theo hướng Bắc Nam.
Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang.
Cầu thang nhà của người Ê Đê luôn được đẽo bằng tay và thường được trang trí bằng hình hai nhũ hoa (trông thể hiện tín ngưỡng phồn thực rõ rệt của người Ê Đê) và hình trăng khuyết.
Các cột, kèo thường đẽo gọt, trang trí bằng hình ảnh các con vật như voi, ba ba, kì đà… Cũng như cầu thang, các vật trang trí này luôn được đẽo bằng tay với cây rìu truyền thống.
Trưng bày nét văn hóa tinh thần
- Lễ hội đâm trâu:
Đối với các tộc người ở Tây Nguyên, con trâu là biểu tượng cho sự thịnh vượng và sức mạnh trong cộng đồng. Vì vậy, trâu thường được người đồng bào dân tộc sử dụng làm vật tế thần linh.
Để tế thần, người đồng bào dân tộc có lễ đâm trâu. Và đâm trâu là lễ tế long trọng nhất trong tất cả các buổi lễ tế của người Tây Nguyên. Lễ hội đâm trâu thường được tổ chức vào các dịp như: ăn mừng chiến thắng, tạ lễ, cầu an, khánh thành nhà rông của làng, khơi dậy niềm kiêu hãnh, tự tin của cộng đồng hay thậm chí còn để xua đuổi tà thần đến quấy nhiễu dân làng như thiên tai, dịch bệnh…
- Tượng nhà mồ:
Hiện vật: Tượng nhà mồ
Tượng nhà mồ là loại hình nghệ thuật điêu khắc độc đáo, một nét đặc sắc trong văn hoá cổ truyền Tây Nguyên. Các tác phẩm thuộc loại hình này được ra đời ở thời điểm lễ bỏ mả với mục đích phục vụ người chết (người Tây Nguyên gọi là hồn ma)
Lễ bỏ mả là một lễ hội gắn liền với hầu hết các tộc người thiểu số có cuộc sống du canh, du cư trên địa bàn Tây Nguyên. Họ quan niệm rằng, chỉ khi nào lễ bỏ mả được tổ chức xong thì hồn ma mới thực sự trở về với tổ tiên, ông bà, để bắt đầu một “cuộc sống” mới ở thế giới bên kia. Kể từ đó, mối quan hệ giữa kẻ sống với người chết mới không còn. Mang ý nghĩa thiêng liêng như thế, nên lễ bỏ mả là một lễ lớn hàng năm, thu hút đông đảo người tham gia, thường diễn ra vào mùa xuân tại nghĩa địa các buôn làng.
Để chuẩn bị tổ chức lễ, ngoài việc sửa sang nhà mồ, chuẩn bị lương thực, thực phẩm, rượu cần…, người ta không quên làm tượng để đặt ở nhà mồ. Ở những ngôi nhà mồ to đẹp, tượng được làm bằng những loại gỗ quý như hương, cà chít, có thể chịu được mưa nắng qua nhiều năm ở ngoài trời. Những cây hương, cà chít phải trên 10 năm tuổi (dài khoảng 2 sải tay, đường kính xấp xỉ 30cm) mới đủ tiêu chuẩn để làm tượng. Trước khi đẽo tượng, người ta phải cúng thần nhà rông, thần bến nước để xin phép.
Tượng nhà mồ thể hiện chủ yếu bằng các mảng, khối, chứ không quá đi sâu vào chi tiết. Tư thế, thần thái của tượng thì muôn hình muôn vẻ. Người bế con, người giã gạo, người ngồi khóc, con vật được yêu thích … Đó chính là sự tái hiện cuộc sống thật một cách sinh động, phong phú.
Tượng nhà mồ đa dạng cả về kích cỡ, người ta thường dùng đơn vị đo là sải tay để ước lượng. Mỗi tượng trung bình được tính bằng một sải rưỡi, trong đó có nửa sải chôn xuống đất, một sải nhô lên là thân tượng. Tất cả tượng đều được chôn bao quanh khu nhà mồ.
Tượng nhà mồ Tây Nguyên, qua bàn tay sáng tạo của các nghệ nhân, chứa đựng những thông tin mang tính xã hội, cộng đồng sâu sắc. Chúng vừa là những tác phẩm nghệ thuật, vừa mang ý nghĩ tâm linh nhưng không hề tạo ra cảm giác cách biệt mà trái lại, rất thân quen, gần gũi với mọi người. Hầu như ở bất cứ buôn làng Gia Rai, Ba Na, Ê Đê, Xơ Đăng… nào, chúng ta cũng có thể bắt gặp những quần thể tượng nhà mồ.
- Cồng chiêng:
Hiện vật: Sưu tập cồng chiêng
Di sản văn hoá của các thế hệ tộc người ở Tây Nguyên gồm: Kho tàng văn học dân gian, nghệ thuật điêu khắc dân gian, tri thức dân gian, nhưng nổi trội nhất là sử thi và cồng chiêng. Người dân nơi đây có cồng chiêng để ứng xử với thiên nhiên, cầu xin, giãi bày với thần linh, tổ tiên, đối thoại với cộng đồng và với chính mình. Khó có nhạc khí nào, sinh hoạt văn hoá nào lại có nhiều vai trò đến vậy. Với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, phương tiện để khẳng định cộng đồng và bản sắc cộng đồng là cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng.
Cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ, các bài nhạc cồng chiêng trước hết là sự đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được coi như một thành tố hữu cơ của lễ thức đó. Như thế, mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng. Các tộc người ở Tây Nguyên có các bài nhạc chiêng cho lễ đâm trâu, khóc người chết trong tang lễ, mừng nhà rông mới, mừng chiến thắng, lễ xuống giống, lễ cầu an cho lúa, mùa gặt… Ngoài ra, còn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng như: Mừng nhà mới, chúc sức khoẻ…
Các bài chiêng cũng đạt đến một trình độ biểu cảm âm nhạc phù hợp với trạng thái tình cảm của con người trong mỗi nghi lễ: Chiêng tang lễ hay bỏ mả thì chậm rãi, man mác buồn; chiêng mùa gặt thì thánh thót, vui tươi; chiêng đâm trâu thì nhịp điệu giục giã…
Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên có một cách tổ chức dàn cồng chiêng khác nhau, cách chơi cũng khác nhau. Có ít nhất 3 phong cách âm nhạc lớn của cồng chiêng Tây Nguyên: Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn; cồng chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng Bana – Giarai thiên về tính chất chủ điệu.
Với các dân tộc Tây Nguyên, cồng chiêng là phương tiện để nối kết cộng đồng. Các tộc người Tây Nguyên luôn hoà hợp nhưng không hòa lẫn nhau trong văn hoá cồng chiêng.
Tiếng cồng chiêng luôn đem đến một cảm xúc rạo rực khó tả trong mỗi con người, như sự đồng thanh tương ứng khiến họ tìm đến với nhau.
Có thể nói, văn hoá và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện tài năng sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Năm 2005, văn hóa cồng chiêng được tổ chức văn hóa thế giới UNECO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
- Ché
Chóe rượu là tài sản quý giá thứ hai đối với đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên, chỉ sau cồng chiêng. Nhiều chóe rượu trong nhà cũng nói lên được sự sung túc của một gia đình. Chóe rượu cần không thể thiếu trong các lễ hội của người Tây Nguyên. Sau mỗi vụ mùa, đồng bào thường dùng các sản phẩm thu hoạch được như gạo, sắn hoặc gạo nếp để chế biến các hũ rượu cần cho các buổi tiệc.
Cồng chiêng và ché còn là biểu trưng của sự giàu có trong các gia đình của các tộc người ở Tây Nguyên. Nhà nào có nhiều ché, chiêng tức gia đình ấy giàu có, sung túc.
Qua trưng bày này chúng tôi hy vọng khái quát được một phần của văn hóa các tộc người ở Tây Nguyên.





