TRIỂN LÃM “ÂM NHẠC CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN”
Triển lãm được thực hiện bởi sự phối hợp giữa Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam. Đây là một trong những hoạt động thực hiện chương trình hành động quốc gia nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Những bức ảnh chưa từng được công bố tại Việt Nam đã đưa người xem đi ngược dòng thời gian và hiểu hơn về một truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Tây Nguyên ở Việt Nam.
Gần 90 bức ảnh trưng bày được lựa chọn từ các kho lưu trữ của Pháp: Trường Viễn Đông Bác cổ, Hội thừa sai Paris và Bảo tàng Quai Branly (Paris). Đó là những bức ảnh do các viên chức thuộc địa, sĩ quan quân đội, các nhà truyền giáo và học giả Pháp chụp trong khoảng thời gian từ những năm 30 đến những năm 60 của thế kỷ XX. Họ ghi lại những điều được thấy tại các buôn làng người Ba Na, Gia Rai, Mnông…thời bấy giờ.
Nội dung triển lãm gồm 4 phần: Phần thứ nhất, Dàn nhạc cồng chiêng giới thiệu những bức ảnh cho thấy cơ cấu của dàn nhạc. Phần thứ hai, Tập quán gõ cồng chiêng. Phần thứ 3, Bối cảnh âm nhạc cồng chiêng, giới thiệu các nghi lễ có sử dụng cồng chiêng. Phần cuối cùng, Vượt khỏi truyền thống, cho thấy từ lâu trong đời sống âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên đã luôn tạo được sự hấp dẫn đối với công chúng.

Nhạc cụ công chiêng Tây Nguyên

Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Khác với các loại nhạc cụ khác đều có thể chơi đơn chiếc, cồng chiêng luôn tạo thành một dàn nhạc, tuân theo một trình tự cố định, trong đó mỗi chiếc cồng, chiêng có vị trí riêng và giữ vai trò của một nốt nhạc.
Người Gia Rai và người Ba Na có nhiều kiểu dàn cồng, chiêng. Dàn “chiêng Arap” rất quan trọng, có thể gồm tới 15 chiếc: 5 cồng và 8 chiêng (ở người Gia Rai) hay 3 cồng và 8 chiêng (ở người Ba na). Dàn “chiêng Mnhum” 3 gồm 3 cồng và 1 hoặc 2 chiếc trống. Người Êđê cũng có những dàn cồng chiêng nổi tiếng, thường hòa tấu với một trống lớn trong ngôi nhà dài.
Người Mnông Gar, Mạ và Cơ ho Srê có dàn cồng chiêng gồm 6 chiếc lớn nhỏ khác nhau. Đối với người Mnông Gar chiếc lớn nhất là chiêng mei, “chiêng mẹ”, đường kính 40cm, dùng để giữ nhịp còn chiếc nhỏ nhất đường kính chỉ khoảng 17cm, là chiếc thứ 5 trong dàn cồng chiêng, khó chơi nhất và nó có chức năng dẫn dắt giai điệu.
Trống cũng là một thành phần của dàn cồng chiêng, để giữ nhịp. Người đánh trống có vai trò như một nhạc trưởng: ra hiệu bắt đầu hoặc dừng lại, cũng như quyết định nhịp điệu và cường độ.
Các dàn chiêng thường chỉ do nam giới sử dụng, riêng ở người Mạ, người Êđê thì phụ nữ cũng chơi cồng chiêng.
Vượt khỏi truyền thống
Là một truyền thống cơ bản của Tây Nguyên, âm nhạc cồng chiêng đã thu hút sự chú ý của những người ngoài đến xứ sở này. Các nhà du thám và lữ hành tới đây hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đều đề cập đến cồng chiêng trong những cuốn du ký của họ. đầu thời thuộc địa, binh sĩ và quan chức dự các lễ hội quan trọng, thường là lễ hiến sinh trâu, trong đó luôn có âm nhạc cồng chiêng. Những tấm ảnh đầu tiên cho thấy dân bản địa được bố trí đứng chụp với cồng chiêng, và ngay từ đầu thế kỷ 20 đã có những bưu thiếp dùng loại ảnh này.
Lễ hiến sinh trâu và diễn tấu cồng chiêng là những hoạt động chủ đạo trong nhiều dịp lễ hội hoàn toàn xa lạ với truyền thống địa phương, như chúng ta có thể thấy trong loạt ảnh về lễ khánh thành con đường số 14 vào năm 1937, hay như buổi đón tiếp một bà sơ công giáo cũng có dàn nhạc cồng chiêng của thanh thiếu niên trong làng người Bahnar.
Tập quán chơi cồng chiêng
Cồng chiêng được đúc bằng hợp kim bao gồm đồng và một số kim loại khác, những chiếc cồng chiêng quý nhất có cả bạc. Cồng chiêng không làm ra tại Tây Nguyên, mà thường mua của Lào (loại cổ nhất) hoặc của người Kinh (loại mới hơn và giá trị thấp hơn). Chất lượng âm thanh phụ thuộc vào hợp kim tạo nên cồng chiêng và người TN biết đến nghệ thuật chỉnh âm thanh hết sức tinh tế bằng nhiều cách khác nhau: dùng búa sắt, dùi gỗ cứng đập vào lòng chiếc chiêng, cồng…
Cồng thường chơi bằng dùi gỗ có bọc vải hoặc da thú ở đầu, gõ vào núm cồng. Dùi gõ chiêng của người Gia Rai, Bana, Êđê là những đoạn cây mềm, gõ vào lòng chiêng. Người Mnông, Mạ, Cơ ho lại dùng nắm tay phải đánh vào mặt chiêng, trong khi tay trái giữ lòng chiêng để điều chỉnh âm thanh. Người Êđê khi tấu cồng chiêng thường ngồi trên một cỗ ghế Kpan rất dài đặt dọc “phòng khách” trong nhà. Còn ở hầu hết các dân tộc khác, phổ biến là người ta diễn tấu cồng chiêng trong tư thế đứng, tạo thành một đội hình di chuyển ngược chiều kim đồng hồ xung quanh vị trí trung tâm của nghi lễ. Những chiếc chiêng nhỏ và nhẹ được cầm ở tay hoặc đeo lên vai bằng dây quai. Những chiếc lớn và nặng thì treo lên 1 cái đòn do 2 người khiêng. Những chiếc cồng rất lớn và trống đại rất nặng thì không mang ra khỏi nhà.
Bối cảnh âm nhạc cồng chiêng
Theo truyền thống, cồng chiêng chỉ được chơi trong nghi lễ. Cồng chiêng có mặt trong tất cả các lễ hội của buôn làng và những ngày lễ lớn trong đời sống. Các nghi lễ vòng đời đều có hòa tấu cồng chiêng. Do vậy, đời sống gia đình diễn ra dường như được đánh dấu thường xuyên bằng âm nhạc cồng chiêng. Đối với tất cả các nghi lễ tang ma, người Gia rai, cũng như người Bahnar, có dàn chiêng lớn với biên chế có thể tới 13 chiếc, cùng với 1 chiếc trống và đôi khi cả chũm chọe nữa. Bộ chiêng trum, gồm 3 chiếc cồng và 1 – 2 trống, thường gõ trong lễ hiến sinh trâu tổ chức vào nhiều dịp khác nhau.
Ở hầu hết các dân tộc Tây Nguyên , cồng chiêng được chơi vào dịp mừng nhà mới và đa số các nghi lễ gia đình, quan trọng nhất là những nghi lễ chuyển tiếp giai đoạn của các thanh thiếu niên nam cũng như nữ. Tùy theo mỗi dân tộc, những nghi lễ đó khác nhau, nhưng đều gắn với cuộc đời mỗi người từ sinh ra đến khi chết đi, đa dạng nhất là các nghi lễ tang ma, và tất cả đều đi kèm với âm nhạc cồng chiêng.
